1. Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng: Hội đồng sáng lập 

Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Chứng khoán 2019 đều quy định rất rõ ràng về việc tổ chức bộ máy, việc tổ chức họp, biểu quyết của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông của công ty cổ phần, công ty cổ phần đại chúng, và các quy định này được cụ thể hóa trong Điều lệ của công ty cổ phần đó. Do đó, bất kỳ hành động, hành vi pháp lý nào nhân danh người quản lý, điều hành doanh nghiệp phải tuân thủ quy định pháp luật, điều lệ công ty.

Tuy nhiên, pháp luật không có bất kỳ quy định về Hội đồng sáng lập và Hội đồng sáng lập không phải là cơ cấu, tổ chức quản lý, điều hành, lãnh đạo doanh nghiệp bên cạnh Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát.

Trong trường hợp Hội đồng sáng lập mang tính biểu tượng, hoặc là bộ phận thực hiện vai trò cố vấn, tham vấn cho Hội đồng quản trị thì nó không trái quy định pháp luật, điều lệ công ty và không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của cổ đông.

Tuy nhiên, nếu Hội đồng sáng lập được quy định, cho phép có quyền tác động đến quyết định, nghị quyết, biểu quyết của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông thì đây là sẽ là vấn đề pháp lý, cụ thể là xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đông và vi phạm quy định pháp luật về tổ chức bộ máy của công ty cổ phần đại chúng.

Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng. Ảnh: Internet.
Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng. Ảnh: Internet.

2. Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng

Một vụ việc đang làm nóng dư luận là vào ngày 14/12/2022, Hội đồng quản trị Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình ban hành quyết định thành lập Hội đồng sáng lập.

Theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng sáng lập do Tập đoàn này ban hành thì Hội đồng sáng lập là cơ quan tham mưu, tư vấn và phản biện cho Hội đồng quản trị và Ban Điều hành công ty.

Đáng chú ý, đối với một số vấn đề trọng yếu của công ty, Hội đồng quản trị chỉ được thông qua khi đạt được sự đồng thuận của Hội đồng sáng lập như: thay đổi mục tiêu, định hướng, chiến lược quan trọng của công ty; sửa đổi Điều lệ, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong hoạt động kinh doanh của công ty hoặc bắt đầu một loại hình kinh doanh mới; tất cả hợp đồng mua bán, sáp nhập và đầu tư lớn hơn 100 tỷ đồng;… 

Việc thành lập Hội đồng sáng lập công ty không phải là vấn đề mới mà trước đây đã từng xảy ra ở một số ngân hàng như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB), Maritime Bank (MSB), SouthernBank (PNB)…

Ví dụ, Hội đồng sáng lập tại ACB do Đại hội đồng cổ đông thành lập ngày 09/3/2007 có chức năng nhằm tư vấn cho Hội đồng quản trị, Ban điều hành trong quá trình quản trị, điều hành Ngân hàng; tham gia ý kiến về những nội dung quan trọng trong quản trị và điều hành ngân hàng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà hiện nay các ngân hàng này đều đã từ bỏ mô hình Hội đồng sáng lập.

Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng. Ảnh: Internet.
Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng. Ảnh: Internet.

3. Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng: Thực trạng mô hình Hội đồng sáng lập hiện nay

Cơ sở pháp lý nào cho phép thành lập Hội đồng sáng lập? 

Pháp luật hiện hành chưa có quy về việc thành lập, tổ chức, hoạt động của Hội đồng sáng lập. Cụ thể, khoản 1 Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2020, mục 2 Chương III Luật Chứng khoán 2019 quy định công ty cổ phần được tổ chức hoạt động theo một trong hai mô hình sau:

  • (i) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Tổng giám đốc; hoặc
  • (ii) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc; trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ủy ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản trị. 

Do pháp luật chưa có quy định cụ thể nên thực tế đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về việc thành lập, hoạt động và địa vị pháp lý của Hội đồng sáng lập.

Trong đó có quan điểm cho rằng: pháp luật hiện hành không quy định nhưng cũng không cấm thành lập Hội đồng sáng lập, do vậy doanh nghiệp được làm những gì pháp luật không cấm. Tuy nhiên, từ góc độ pháp lý lẫn thực tiễn, có nhiều vấn đề cần đặt ra và xem xét một cách thấu đáo xung quanh quan điểm này.

Thẩm quyền quyết định thành lập Hội đồng sáng lập? 

– Vấn đề này phụ thuộc quan niệm về địa vị pháp lý của Hội đồng sáng lập: Nếu Hội đồng sáng lập là cơ quan đối trọng (ngang hàng) với Hội đồng quản trị thì không thể do các thành viên Hội đồng quản trị thành lập, vì như vậy không đảm bảo tính chất “đối trọng” của hai cơ quan này.

Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng: Thực trạng mô hình Hội đồng sáng lập hiện nay. Ảnh: Internet.
Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng: Thực trạng mô hình Hội đồng sáng lập hiện nay. Ảnh: Internet.

– Còn nếu Hội đồng sáng lập là cơ quan giám sát Hội đồng quản trị thì càng không thể do các thành viên Hội đồng quản trị tự thành lập ra mà phải do Đại hội đồng cổ đông bầu hoặc thông qua. 

  • Trường hợp Đại hội đồng cổ đông muốn bầu thành viên Hội đồng sáng lập thì địa vị pháp lý của Hội đồng sáng lập phải được quy định trong điều lệ công ty chứ không chỉ dựa vào quy chế hoạt động của Hội đồng sáng lập. Mà điều lệ công ty đại chúng thì phải phù hợp với Luật Doanh nghiệp, các văn bản hướng dẫn về quản trị công ty đại chúng và điều lệ mẫu công ty đại chúng.

Do vậy, khi pháp luật chưa quy định cụ thể thì không có căn cứ để quy định địa vị pháp lý của Hội đồng sáng lập trong điều lệ hoạt động của công ty đại chúng.

  • Trường hợp Đại hội đồng cổ đông tự thành lập Hội đồng sáng lập như tại một số doanh nghiệp vừa qua thì có hợp lệ không?

Theo quan điểm của chúng tôi, thành viên Hội đồng quản trị do cổ đông bầu ra để đại diện các cổ đông, nhóm cổ đông trong việc thực thi quyền quản trị công ty.

Việc Hội đồng quản trị thành lập thêm Hội đồng sáng lập để tự “giới hạn”, kiểm soát việc biểu quyết, thông qua các quyết định của chính mình khi chưa được cổ đông thông qua là hành vi vượt thẩm quyền, gián tiếp xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cổ đông.

– Nếu Hội đồng quản trị và Hội đồng sáng lập đạt được sự đồng thuận trong việc đưa ra quyết sách trọng yếu, cùng hướng đến lợi ích chung của công ty và các cổ đông, thì điều này sẽ vừa tăng tính phản biện, công khai, minh bạch và hiệu quả trong công tác điều hành quản trị công ty.

– Tuy nhiên, nếu phát sinh sự bất đồng giữa Hội đồng quản trị và Hội đồng sáng lập sẽ tiềm ẩn rủi ro rất lớn, khi đó hoạt động của điều hành của Hội đồng quản trị sẽ bị “treo” cho đến khi đạt được sự đồng thuận từ Hội đồng sáng lập và trong tình huống này thì chính cổ đông là người bị thiệt đơn, thiệt kép.

Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng: Thực trạng mô hình Hội đồng sáng lập hiện nay. Ảnh: Internet.
Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng: Thực trạng mô hình Hội đồng sáng lập hiện nay. Ảnh: Internet.

Cơ chế nào để kiểm soát Hội đồng sáng lập?

Một vấn đề nữa đặt ra là trách nhiệm của thành viên Hội đồng sáng lập đối với các nghị quyết  của Hội đồng quản trị có sai phạm nhưng nghị quyết đó đã được Hội đồng sáng lập thông qua hoặc đồng thuận. Ngược lại, nếu thành viên Hội đồng sáng lập có sai phạm cá nhân thì công ty có liên đới trách nhiệm không? Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định về trách nhiệm của người quản lý công ty (Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2020); quyền khởi kiện của cổ đông đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc (Điều 166 Luật Doanh nghiệp 2020).

Khái niệm “Người quản lý công ty” theo Luật Doanh nghiệp không bao gồm thành viên Hội đồng sáng lập, nên rất khó có cơ chế để xử lý trách nhiệm của thành viên Hội đồng sáng lập khi có sai phạm cũng như trách  nhiệm liên đới của công ty. 

Ngoài ra, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền cổ đông và ổn định thị trường, pháp luật chứng khoán đặt ra tiêu chuẩn cao trong việc tuân thủ các nguyên tắc quản trị, đảm bảo tính minh bạch, công khai đối với công ty đại chúng.

Trong đó, có nhiều quy định nhằm kiểm soát, loại bỏ các hành vi “gia đình trị”, có yếu tố tư lợi như: cấm các thành viên là người quản lý, điều hành doanh nghiệp, Kiểm soát viên không được có quan hệ gia đình, huyết thống (điểm b Khoản 5 Điều 162 Luật Doanh nghiệp 2020); hay điều kiện thực hiện các giao dịch giữa công ty với người có liên quan (Điều 167 Luật Doanh nghiệp 2020). 

Do đó, dư luận và cơ quan chức năng có thể đặt ra nghi vấn việc lãnh đạo chủ chốt tại công ty đại chúng từ nhiệm các chức vụ tại Hội đồng quản trị /Ban giám đốc để nhường cho người thân giữ vị trí lãnh đạo tại công ty; nhưng vẫn có quyền kiểm soát thực tế tại Hội đồng sáng lập theo những thỏa thuận ngầm nội bộ. Điều này liệu có làm “vô hiệu hóa” các nguyên tắc quản trị minh bạch của công ty đại chúng và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông thiểu số?

Yếu tố đồng thuận giữa các nhóm cổ đông là chìa khóa quan trọng để xây dựng và thực thi bộ máy quản trị hiệu quả. Dù vậy, ngay cả khi công ty có sự bất đồng trong việc điều hành giữa các nhóm cổ đông, thì một mô hình quản trị cân bằng và đối trọng cũng là giải pháp quan trọng góp phần đảm bảo sự ổn định và đảm bảo tối đa quyền cổ đông nhỏ lẻ.

Trên đây là nội dung tư vấn của KALF về Hội đồng sáng lập trong quản trị công ty đại chúng và các vấn đề liên quan. Tất cả các ý kiến tư vấn trên của chúng tôi đều dựa trên các quy định pháp luật hiện hành. Nếu như Quý khách hàng có bất kỳ thắc mắc, yêu cầu nào về các vấn đề pháp lý, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp kịp thời.